U tuyến mồ hôi là bệnh u da lành tính, do sự phát triển quá mức của các tế bào ống tuyến mồ hôi hoặc do đáp ứng tăng sản quá mức của tuyến với phản ứng viêm trong cơ thể.
U tuyến mồ hôi hay u ống tuyến mồ hôi (syringoma) là bệnh u da lành tính, do sự phát triển quá mức của các tế bào ống tuyến mồ hôi hoặc do đáp ứng tăng sản quá mức của tuyến với phản ứng viêm trong cơ thể. Tuyến mồ hôi của da gồm 2 loại, tuyến eccrin đổ trực tiếp lên da và tuyến apocrin đổ vào cổ nang lông.
U ống tuyến mồ hôi là bệnh tăng sinh lành tính của tuyến eccrin. Bệnh gặp ở nhiều chủng tộc, thường ở tuổi từ 30-40, nữ nhiều hơn nam với tỉ lệ 6,6:1. Tuy lành tính nhưng bệnh lại ảnh hưởng đến thẩm mỹ và tác động nhiều đến tâm lý, khiến người bệnh kém tự tin và làm giảm chất lượng cuộc sống.
Bệnh có tính di truyền nên nguyên nhân chưa rõ. Một số yếu tố thuận lợi như mùa hè, môi trường làm việc có nhiệt độ cao, stress, hormon sinh dục, đặc biệt là progesteron, người mắc bệnh hội chứng Down có tỷ lệ mắc bệnh u tuyến mồ hôi cao hơn.
Biểu hiện gồm các sẩn nhỏ, chắc, bề mặt phẳng, kích thước 1 – 5mm, cùng màu với màu da, một số ít có màu vàng, nâu nhạt, hoặc sáng màu hơn. Tổn thương xuất hiện với số lượng nhiều, phân bố đối xứng, tập trung một số vùng nhất định. Nhất là quanh mắt, mi dưới, gò má, trán, cổ, nách, ngực, bụng, đùi, vùng mu, sinh dục…
Tổn thương có thể vài sẩn đơn độc, cũng có khi lan tỏa. Đôi khi gây ngứa ngáy khó chịu. Tăng sinh các ống tuyến mồ hôi, lòng ống chứa mảnh vụn không bắt màu thuốc nhuộm, một số ống dạng dấu phẩy, xâm nhập lympho quanh nang lông.
U ống tuyến mồ hôi được phân thành 4 thể chính là:
Thể khu trú, hay gặp ở vùng dưới mi mắt, vùng má. Tuy nhiên, cũng có thể gặp ở vùng nách, cổ, ngực, bụng, sinh dục, cánh tay, ria mép.
Hai, thể di truyền tương đối hiếm gặp, di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường.
Ba, thể kết hợp hội chứng Down và.
Bốn , thể lan tỏa thường xảy ra ở hai bên và có khuynh hướng đối xứng.
Điều trị
U ống tuyến mồ hôi thường xuất hiện dưới dạng sẩn nhỏ, dẹt, phẳng, hơi gờ nhẹ trên mặt da, màu da hay vàng xám. Mặt, mu bàn tay, cẳng tay, cẳng chân và phần trên của ngực là những vị trí thường gặp. Số lượng thường nhiều, sắp xếp thành cụm hay thành vệt. Thương tổn thường phân bố rải rác ở mặt, nhất là vùng trán, là những u nhỏ kích thước 1-3mm, màu da bình thường, chắc và lõm giữa.
Hầu hết các trường hợp được chẩn đoán bằng khám trực tiếp trên lâm sàng. Sinh thiết có thể cần thiết để loại trừ các loại khối u tương tự khác như u trichoepitheliomas, trichodiscomas, fibrofolliculomas cũng như mụn thịt và ung thư tế bào đáy. Sinh thiết các khối u cho thấy các ống dẫn mồ hôi hình dấu phẩy ở lớp hạ bì (sâu) của da.
Cho đế nay trên thế giới đã có nhiều phương pháp điều trị ống tuyến mồ hôi như đốt điện trong thương tổn, phẫu thuật cắt bỏ tổn thương bằng kéo Castroviejo, mài da, laser CO2. Tỷ lệ thành công của các phương pháp này cũng rất khác nhau do mỗi phương pháp có những ưu điểm và mặt hạn chế riêng.
Nguyên tắc điều trị chung là loại bỏ thương tổn. Nội khoa thường tác dụng thấp, gồm dùng isotretinoin bôi mỏng đúng tổn thương vào buổi tối. Atropin dung dịch 1% thoa 1 lần/ngày có tác dụng điều trị ngứa và làm giảm kích thước tổn thương u ống tuyến mồ hôi. Tranilast (axít anthranilic) ức chế sự giải phóng các chất trung gian hóa học bởi tế bào mast. Tranilast uống với liều theo chỉ định của bác sĩ 24 giờ trong 6 tháng.
Ngoại khoa có thủ thuật Laser CO2 với bước sóng 10.600 nm có tác dụng làm bốc bay tổ chức u. Tùy từng bệnh nhân và vị trí tổn thương mà sử dụng công suất điều trị khác nhau. Có thể là laser CO2 đơn thuần hoặc kết hợp với chấm axít trichoxacetic.
Ngoài ra còn có phẫu thuật cắt bỏ u ống tuyến mồ hôi hoàn toàn song dễ bị sẹo hay bị biến dạng nên chỉ có thể áp dụng trong trường hợp có diện tích nhỏ. Hay sử dụng kỹ thuật radio surgery, dùng sóng cao tần gây phá hủy chính xác mô của u ống tuyến mồ hôi.